Nước Mỹ không có luật báo chí. Toàn bộ hoạt động báo chí ở nước này được “điều chỉnh” bởi một điều khoản, đúng hơn là ghép vào một điều khoản, đó là Tu chính án thứ nhất (The first Amendment) của Hiến pháp Hoa Kỳ.
Toàn bộ hoạt động báo chí ở Mỹ được điều chỉnh ngay tại Hiến pháp nước này - Ảnh: Shutterstock
Tu chính án này ghi: “Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hoặc hạn chế tự do ngôn luận hay báo chí hoặc quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình” (nguyên văn: Congress shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the free exercise thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or the right of the people peaceably to assemble, and to petition the Government for a redress of grievances).
Như lời văn của nó chỉ rõ, Tu chính án thứ nhất không nhằm quy định báo chí được phép làm gì và không được phép làm gì, nó chỉ “răn đe” không cho chính quyền động tới báo chí. Tất nhiên các nhà báo Mỹ không có đặc quyền, họ vẫn “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” như những công dân khác.
Một Tu chính án chỉ có 45 chữ nhưng lại thâu tóm toàn bộ các quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và biểu tình. Nó rất chung chung, mơ hồ và đa nghĩa, chắc chắn rất khó đưa vào cuộc sống, nếu không có tòa án độc lập.
Lịch sử tự do báo chí của nước Mỹ bước qua những cung bậc thú vị liên quan đến các “vụ án”. Thời còn là thuộc địa của Anh, việc “phỉ báng” các quan chức, dù nội dung có đúng hay không, đều phạm tội hình sự. Cho đến năm 1734, khi diễn ra một vụ án, đó là vụ Zenger. John Peter Zenger, một chủ báo tờ New York Weekly Journal cho đăng một bài công kích viên Thống đốc Hoàng gia Anh tại đây, chỉ trích ông này bất tài và nhận hối lộ. Zenger đã phải vào tù về tội phỉ báng. Nhưng người bào chữa cho Zenger, luật sư Andrew Hamilton đã làm đảo ngược tình thế khi chứng minh những lời “phỉ báng” của Zenger là không sai. Với sự bào chữa đầy thuyết phục của Hamilton, tòa đã tuyên Zenger vô tội. Vụ án này đã tạo một bước ngoặt về pháp lý, từ đây trong những vụ kiện về tội phỉ báng (ngày nay đều là các vụ kiện dân sự), nguyên đơn chỉ có thể thắng kiện nếu chứng minh lời phỉ báng đó là sai sự thật. Giá trị pháp lý đó tồn tại cho tới ngày nay, tuy rằng trước năm 1964 các tòa án vẫn xử theo luật của từng bang, chưa thống nhất trong liên bang.
Vào năm 1964 lại diễn ra một vụ án lịch sử liên quan đến quyền tự do báo chí. Đó là vụ New York Times kiện Sullivan. Vụ kiện bắt nguồn từ một trang quảng cáo đăng trên tờ New York Times của một số mục sư nhằm quyên tiền để bào chữa cho nhà hoạt động nhân quyền lừng danh nước Mỹ - mục sư Martin Luther King, sau khi ông bị bắt giam. L.B Sullivan, người phụ trách Sở Cảnh sát thành phố Montgomery, bang Alabama, cho rằng nội dung quảng cáo đã nói không đúng về các hành vi của lực lượng cảnh sát và phỉ báng mình, nên đã kiện New York Times và các mục sư ra tòa. Xét thấy nội dung quảng cáo có một số thông tin không đúng, tòa án đã quyết định cho Sullivan thắng kiện, buộc các bị đơn phải bồi thường cho ông này 500 ngàn USD. New York Times và các mục sư kháng cáo lên Tối cao Pháp viện.
Tòa tối cao cho rằng không thể dùng các quy định điều chỉnh về tội phỉ báng (defamation, libel) để áp đặt hình phạt đối với việc phê phán hành vi ứng xử của các công chức, rằng dù nội dung phê phán có sai sót nhưng việc yêu cầu những người phê bình các quan chức phải bảo đảm độ chính xác trong phát biểu của họ là hành động “tự kiểm duyệt”. Tòa cũng cho rằng, những công chức Nhà nước muốn thắng kiện trong trường hợp này không chỉ phải chứng minh những nội dung được đăng tải là sai mà còn phải chứng minh những người đăng tải nội dung này là “có ác ý” (actual malice). Nhận thấy rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ tờ New York Times và các mục sư đã “có ác ý” khi đăng nội dung đó, vì vậy Tòa tối cao phán quyết New York Times và các mục sư thắng kiện.
Phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ trong vụ án lịch sử này có giá trị như một điều luật, và hơn thế nữa, nó có giá trị ngang với một điều khoản của Hiến pháp, để từ thời điểm này áp dụng cho tất cả các vụ kiện về tội phỉ báng: một nguyên đơn là quan chức Nhà nước muốn thắng kiện nhất thiết phải chứng minh rằng những lời phỉ báng của bị đơn là sai, đồng thời phải chứng minh được cái sai đó là “có ác ý”. Từ vụ kiện này, Tối cao Pháp viện đã chính thức thông qua thuật ngữ “actual malice” để đưa vào giải thích ý nghĩa của Hiến pháp.
Phán quyết về vụ New York Times kiện Sullivan trở thành một án lệ, không chỉ áp dụng cho các công chức nhà nước mà Tối cao Pháp viện còn mở rộng cho cả “những nhân vật của công chúng”, bao gồm các ngôi sao giải trí, các nhà văn nổi tiếng, các vận động viên thể thao và những người “thường xuyên thu hút sự quan tâm của giới truyền thông”.
Như vậy là, kể từ năm 1964, tại nước Mỹ, người bình thường kiện báo chí về tội phỉ báng chỉ cần chứng minh việc phỉ báng đó không đúng sự thật là thắng kiện. Nhưng đối với những người nổi tiếng, muốn thắng kiện phải chứng minh đồng thời 2 việc: thông tin sai sự thật và thông tin sai sự thật đó là “có ác ý”. Phê phán những người nổi tiếng ở Mỹ mà không đúng sự thật nhưng không “có ác ý” thì luật pháp nước Mỹ “chấp nhận được”. Hệ quả của phán quyết này còn có tác dụng ngăn chặn thói hiếu danh, vì làm một người nổi tiếng ở Mỹ phải chấp nhận một chút hạn chế về tự do so với làm một người bình thường.
Năm nay, nhân kỷ niệm 50 năm diễn ra sự kiện trên, Ban biên tập tờ New York Times (NYT) có bài xã luận nêu bật ý nghĩa của phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ kiện này. New York Times cho rằng phán quyết của Tối cao Pháp viện đã “lập tức thay đổi pháp luật về tội phỉ báng ở Hoa Kỳ”, rằng đây là sự “bảo vệ rõ ràng và mạnh mẽ nhất cho tự do báo chí trong lịch sử nước Mỹ”, rằng “ngày nay chúng ta hiểu về tự do báo chí phần lớn là từ vụ Sullivan”. Tuy nhiên, theo New York Times, nhà nước vẫn có thể viện dẫn nhiều lý do để đảo lộn tinh thần của vụ Sullivan “khi mà chính quyền Obama đã thực hiện ở mức độ cực đoan việc truy tố những người bị nghi ngờ làm rò rỉ tài liệu mật, thậm chí còn thu giữ hồ sơ tài liệu của các nhà báo”, dù New York Times khẳng định nước Mỹ vẫn nằm trong các nước có tự do báo chí “thông thoáng nhất thế giới”. (*) (còn tiếp)