Đó là băn khoăn mà GS. Lê Hồng Hạnh - nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) đặt ra tại hội thảo “Thu hồi tài sản tham nhũng - Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế” do Ban Nội chính Trung ương tổ chức sáng 13/3.
Trình bày tóm tắt dự thảo báo cáo kết quả nghiên cứu “Thu hồi tài sản tham nhũng - Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”, TS. Vũ Thu Hạnh - Phó vụ trưởng Vụ Nghiên cứu tổng hợp (Ban Nội chính Trung ương) - đưa ra khái niệm: “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng, tài sản phát sinh từ hành vi tham nhũng và tài sản có được do áp dụng các chế tài đối với người có hành vi tham nhũng. Chúng tôi liệt kê các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng phổ biến, gồm: Bồi thường thiệt hại về tài sản; áp dụng hình phạt tiền; áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp tư pháp nhằm thu hồi tài sản tham nhũng; tịch thu tài sản có được từ tham nhũng; tịch thu tài sản không chứng minh được nguồn gốc…”.
GS. Lê Hồng Hạnh - nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - phát biểu tại hội thảo.
Tuy nhiên, GS. Lê Hồng Hạnh - nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) - phản biện: Một quan chức đang muốn tiến thân, đã hối lộ cấp trên của mình bằng cách giúp con cái của người này có chức tước, được “ngồi” vào một vị trí lãnh đạo nào đó trong cơ quan A, B, C không đúng theo trình tự, quy định thì xử lý thế nào?
“Một ông hoặc bà quan chức cỡ thứ trưởng, bộ trưởng không cần tới tiền bạc, tài sản nữa mà lại cần được ăn chơi trác táng, đòi hỏi tình dục chẳng hạn thì nếu chỉ quy định “thu hồi tài sản” thì sẽ thu hồi cái gì ở đây? Quy định chuyện này cần phải phù hợp với công ước quốc tế về chống tham nhũng, cũng như hiến chương cộng đồng ASEAN. Tôi muốn gửi thông điệp rằng, chính sách sau này phải tính tới việc không chỉ thu hồi tài sản mà phải thu hồi hoặc hủy tất cả lợi ích khác mà người tham nhũng có được”- ông Hạnh bày tỏ.
Theo ông Hạnh, việc thu hồi tài sản tham nhũng phải đặt trong tương quan với các luật về quan hệ quốc tế, đầu tư, đấu thầu - những lĩnh vực cội nguồn của tham nhũng.
“Chúng ta có Luật phòng chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự nhưng sửa đổi đi, sửa đổi lại bao nhiêu lần rồi nhưng chúng ta có xác định được vấn đề đâu; tài sản tham nhũng vẫn nằm trong gia tộc của người tham nhũng, ở nhà thờ, nhà ở, con cái họ. Chính vì thế phải có đột phá. Đột phá ở đây là không cần chờ tới khi có bản án thì mới xử lý được các quyền lợi của kẻ tham nhũng, bởi thực tế cho thấy có những vụ án tham nhũng quay đi quay lại đã mất 10 năm rồi, cứ xử sơ thẩm - phúc thẩm - giám đốc thẩm rồi lại quay trở lại sơ thẩm - phúc thẩm- giám đốc thẩm… Đối với tham nhũng mà chúng ta làm như thế thì đất nước này bị tàn phá mất rồi. Đột phá ở đây là phải có nguyên tắc pháp luật, không cần bản án, chưa cần bản án đã xử được rồi”- ông Hạnh thẳng thắn.
Để dẫn chứng cho đề xuất mạnh mẽ của mình, GS. Lê Hồng Hạnh lấy ví dụ về trường hợp một tướng công an ở tỉnh Quảng Nam xây dựng biệt phủ trong khu rừng cấm, gây bức xúc dư luận thời gian qua.
“Rõ ràng chưa cần tới bản án nhưng hành vi vi phạm pháp luật quá rõ ràng rồi thì buộc phải xử lý. Cơ quan chính quyền phải làm, đốc thúc việc phá dỡ như thế. Trong những trường hợp như thế chúng ta đâu cần bản án của tòa án đâu ạ. Chúng ta hoàn toàn có thể chứng minh được rằng thu nhập của anh như thế này, tài sản của anh như thế kia mà anh không chứng minh được thì rõ ràng đấy là khối tài sản bất hợp pháp. Đất nước ta hoàn toàn có thể kiểm tra được việc đó trong mối liên kết với thuế, chứng khoán, đầu tư,… để chứng minh khối tài sản đó hoàn toàn bất hợp pháp, do đó có thể thu hồi được. Tôi nghĩ cần phải có đột phá như vậy. Trong quá trình thu hồi đó, nếu phát hiện hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ tiếp tục xử lý. Nếu chúng ta không làm được điều đó, không có đột phá như thế thì sẽ rất đáng tiếc”- ông Hạnh nhấn mạnh.
Hội thảo do Ban Nội chính Trung ương tổ chức sáng 13/3.
“Không có ai khởi kiện đòi lại tài sản tham nhũng”
Theo TS. Phạm Quý Tỵ - nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp - dự thảo nghiên cứu đã đưa ra một thông tin đáng chú ý: Thời gian qua không có ai khởi kiện dân sự đòi lại tài sản của người tham nhũng chiếm đoạt.
“Về vấn đề này báo cáo nghiên cứu cần phân tích rõ hơn nguyên nhân dẫn đến các cơ quan, tổ chức vì sao lại không khởi kiện dân sự?”- ông Tỵ đặt vấn đề rồi tự phân tích: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hành vi tham nhũng gắn liền với tội phạm, vì thế khi đã phát hiện có hành vi tham nhũng từ 2 triệu đồng trở lên là phải xử lý hình sự.
Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự như sau: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội”.
“Như vậy khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì phải được xem xét xử lý bằng hình sự, trong đó có cả việc xử lý tài sản tham nhũng, vì thế không thể khởi kiện kiện dân sự để đòi tài sản tham nhũng. Đây là nguyên nhân vì sao trong thời gian qua không có ai khởi kiện dân sự đối với tài sản tham nhũng”- ông Tỵ lý giải.
Tuy nhiên, ông Phạm Quý Tỵ cho rằng trường hợp đã khởi tố vụ án hình sự sau đó bị can hoặc bị cáo chết, cơ quan tố tụng đã đình chỉ vụ án hình sự thì cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện dân sự để đòi lại tài sản mà người phạm tội tham nhũng đã chiếm đoạt.
“Về vấn đề này chúng tôi đồng tình với nhận định của dự thảo nghiên cứu nêu về xử lý tài sản của người tham nhũng đã chết. Theo đó trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng, đã khởi tố vụ án hình sự sau đó bị can hoặc bị cáo chết thì cơ quan tố tụng đình chỉ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, còn tài sản tham nhũng vẫn phải tiếp tục chứng minh xử lý. Trường hợp chứng minh được tài sản của người phạm tội do tham nhũng mà có thì phải thu hồi, nếu người người phạm tội có trách nhiệm bồi thường thì người thừa kế tài sản của người đã chết phải có trách nhiệm bồi thường trong giới hạn di sản của người chết để lại. Do pháp luật chưa quy định cụ thể trình tự thủ tục điều tra, xác minh tài sản của người phạm tội tham nhũng đã chết nên thực tế khi qua cơ quan tố tụng đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can thì cũng chấm dứt điều tra tài sản tham nhũng của người phạm tội, gây nhiều khó khăn cho việc xử lý tài sản tham nhũng. Trong dự thảo báo cáo có kiến nghị cần cụ thể hóa quy định này trong Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, chúng tôi đồng tình”- ông Tỵ bày tỏ quan điểm.
Theo: Thế Kha - Dân trí