Số can phạm mới chuyển từ đất liền tới trại, buồn tình không biết làm gì, cả ngày dài cổ giải trí bằng bộ bài mạt chược. Đánh bài mãi cũng đâm chán, đến một lúc nào đó...
Trùm giang hồ miền Nam mất tích sau cuộc trốn trại côn đảo bí ẩn (Ảnh minh họa)
Khác với đảo Côn Lôn (sau được đổi thành Côn Sơn và hiện nay là Côn Đảo), thời Pháp thuộc, đảo Phú Quốc chưa hề có trại giam. Thời Ngô Đình Diệm cũng vậy. Mãi đến “đệ nhị cộng hòa” của Nguyễn Văn Thiệu, Phú Quốc mới hình thành hai trại giam, một dành cho tù binh (tức là số bộ đội miền Bắc vô chiến đấu và bị bắt tại miền Nam), một dành cho “dân chơi” và số tù chính trị quốc gia (chỉ số chống đối chế độ Sài Gòn khi ấy nhưng không liên quan gì với Mặt trận Giải phóng miền Nam - hầu hết là số người can dự vào cuộc chống đối Thiệu ở miền Trung).
“Dân chơi” được đưa ra Phú Quốc lúc đó chỉ khoảng vài chục người, toàn thuộc loại du đãng, đánh lộn có nhiều “thành tích có vằn có vện” (không phải cướp của giết người, cũng không được đưa ra tòa xét xử) như Hải Phòng Kin, Sú Hùng, Lâm Chín ngón, Bảy Xi, Hải Súng, Quảy Thầu Hao, Hắc Quảy Chảy, Đực Bà Tiểu, Thanh Tưa, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hòa Áo thun... Và đương nhiên, trong số đó có Đại Cathay.
Trại giam thứ hai này được xây cất vội vàng theo kiểu dã chiến, gần ngay sân bay thuộc thị trấn Dương Đông, và do đó cũng không mấy xa bãi biển (không phải trại giam tù binh do Mỹ xây dựng, nằm trên đường đi từ Dương Đông đến An Thới, cách thị trấn Dương Đông đến hơn 20km). Vội vàng đến nỗi trại giam chưa kịp đặt tên ngoài một danh từ khá hoa mỹ sử dụng trên giấy tờ: “Trại hướng nghiệp Phú Quốc”.
Số can phạm mới chuyển từ đất liền tới trại, buồn tình không biết làm gì, cả ngày dài cổ giải trí bằng bộ bài mạt chược. Đánh bài mãi cũng đâm chán, đến một lúc nào đó, bác sĩ Mẫn cao hứng tuyên bố:
- Tụi nó không đặt tên cho trại này thì chúng ta phải đặt tên mới được!
Cả bọn nhao nhao đồng ý. Sau một hồi bàn tán, ai nấy nhất trí sẽ xáo bộ bài và để một người làm “đại diện” rút một cây bài. Tên cây bài này sẽ là tên trại. Đại Cathay được hân hạnh đề cử làm người rút cây bài ấy. Và Đại Cathay đã rút trúng con bài cửu sừng.
Trại Cửu Sừng từ đó thay cho tên “Trại hướng nghiệp Phú Quốc” (thật ra trại đâu có dạy cho ai nghề gì - chẳng có người dạy, cũng chẳng có xưởng trại, máy móc... chi ráo lấy gì mà “hướng nghiệp” ?).
Theo lời kể của một trung úy cảnh sát dã chiến có nhiệm vụ canh gác trại Cửu Sừng thì:
“Trong một chuyến thăm nuôi, tôi thấy trong đám thân nhân những người tù có thân nhân của Đại Cathay. Đó là vợ ba của Đại, khá xinh đẹp, nghe đâu thuộc gia đình tử tế và bản thân chị ta là người học thức. Trong những món đồ thăm nuôi hậu hĩnh, có một chiếc áo blouson. Chiếc áo màu đen, sau lưng thêu bản đồ Việt Nam chia đôi. Nửa trên phía Bắc thêu chỉ đỏ, phía miền Nam thêu chỉ vàng và hai chữ Việt Nam thêu to tướng trên vai lưng áo. Loại áo này bán rất nhiều ở đường Lê Thánh Tôn, Sài Gòn khi đó, dành cho lính Mỹ mang về nước làm kỷ niệm. Thật ra chiếc áo này chẳng ấm áp gì, những đường may lại vụng về, xấu xí. Khi khám xét đồ thăm nuôi, tôi nhấc chiếc áo đó lên xem xét. Chiếc áo nặng trịch, ngoài sức tưởng tượng! Lần vào lưng áo, tôi biết có những thỏi gì đó như những thỏi kim loại nhưng mềm. Tôi toan lên tiếng thì một vị sếp của tôi lừ mắt ra hiệu tôi trả lại áo cho Đại Cathay. Tôi không còn cách nào khác là đưa chiếc áo cho Đại Cathay ôm trở về trại”.
“Điều bất ngờ nhất là chỉ một ngày sau, vào buổi tối, Đại Cathay đã trốn thoát khỏi trại cùng với một đàn em thân tín. Theo lời kể lại của lính gác thì Đại Cathay khi trốn đi đã mặc quần áo hải quân cùng với một số binh sĩ vừa lính vừa sĩ quan. Họ được hộ tống ra bãi biển dung ca-nô chạy ra một chiếc tàu hải quân đậu sẵn ngoài khơi”.
Phẩn cuối lời kể của viên trung úy cảnh sát dã chiến gần đúng với nội dung công điện hỏa tốc được gởi từ “Trại hướng nghiệp Phú Quốc” về Tổng nha Cảnh sát Quốc gia...
Tuy nhiên, lời kể của viên trung úy cảnh sát dã chiến cũng như nội dung công điện hỏa tốc trên đều chỉ đúng ở phần đầu.
Chúng tôi đã trực tiếp gặp một số đàn em của Đại Cathay liên quan mật thiết đến chuyện vượt ngục này, và qua phối kiểm các nguồn tin thu được, xin dựng lại câu chuyện như sau:
Sau khi nhận được “chiếc áo lạnh dát vàng”, Đại Cathay tỏ ra rất phấn khởi, bàn bạc với số đàn em thân tín, tính chuyện vượt ngục. Đại Cathay cho biết, anh ta đã mua chuộc được một số người trong Ban Quản đốc “Trại hướng nghiệp Phú Quốc” (gồm Đại úy Nghĩa, Trung úy Long, Trung úy Tảo), đồng thời liên hệ được với một tàu hải quân. Tất cả đều sẵn sàng để Đại Cathay vượt ngục cùng với một vài tay đàn em thân tín và giúp họ trốn qua Thái Lan. Gần một chục tay đàn em xin đi theo Đại Cathay gồm Hải Súng, Lâm Chín ngón, Xì kíp, Hùng Mỏ chuột, Lắm Mổ bụng... Nhưng Hải Súng tham mưu:
- Thằng Lâm (Chín ngón) lóc chóc, để nó đi theo là bể chuyện.
Kẹt nỗi Lâm Chín ngón lại là cánh tay đắc lực thân cận của Đại Cathay và rất được Đại Cathay thương yêu. Suy nghĩ mãi đến gần nửa đêm, Đại Cathay bảo Lâm Chín ngón:
- Tao nghe nói mày còn chơi xì ke phải không? Bỏ đi. Chơi thứ đó hại người lắm. Mày phải nghe lời tao!
- Dạ... Nhưng bỏ gay quá.
- Tao cho mày chích lần này là lần chót!
Vừa nói, Đại Cathay vừa kêu đàn em chích vào mạch máu ở cánh tay Lâm Chín ngón một liều ma túy gấp đôi liều bình thường. Liều thuốc này do chính Hải Súng pha chế, lại thêm cả một số “chất xúc tác” để tăng ép-phê. Kết quả Lâm Chín ngón “phê”, ngủ say như chết.
Giờ “G” vượt ngục đã đến. Đại Cathay và 5 tên đàn em lặng lẽ chui qua hàng rào trại giam. Đêm hôm ấy trời tạnh ráo, nhưng ánh sáng lập lòe của những vì sao không đủ soi tỏ cảnh vật. Bỗng có tiếng quát lớn:
- Ai đấy?
Tiếp theo là tiếng súng bắn báo động liên hồi và hỏa châu vụt tỏa sáng trên bầu trời. Thì ra do giờ giấc hợp đồng không chặt chẽ, Đại Cathay và bọn đàn em bò ra hàng rào trại giam không đúng ca trực của tốp lính gác đã bị mua chuộc.
Cũng có nguồn tin cho rằng không phải nhiều dân chơi xin vượt ngục theo Đại Cathay, mà thực ra Đại Cathay phân công nhiều người cùng đi theo, để phòng khi gặp chuyện sẽ “tung hỏa mù” giúp Đại Cathay dễ bề trốn thoát. Dù hiểu theo cách nào, đạn vẫn tiếp tục nổ, hỏa châu tiếp tục nối đuôi nhau soi sáng khu trại giam như ban ngày, nhưng không còn cách nào khác vì đã lỡ “phóng lao”, bọn vượt ngục cứ thế liều chết phóng chạy. Xì kíp, Hùng Mỏ chuột... bị bắt. Chỉ còn Đại Cathay và Hải Súng chạy thoát. Tuy nhiên họ không dám chạy về phía bãi biển để ra tàu hải quân như kế hoạch vạch sẵn, mà lao bừa theo hướng ngược lại: chui vô rừng, lần lên phía Bắc đảo...
Đến đây, trước khi viết tiếp về chuyện vượt ngục của Đại Cathay, chúng tôi thấy nên nhắc lại một số “huyền thoại” của nhân vật này để bạn đọc tiện theo dõi...
Đại Cathay đang trong lứa tuổi phải đi quân dịch, nhưng anh ta vẫn “phây phây” khoác đồ xi-vin ngông nghênh trên đường phố giữa Sài Gòn. Một viên tướng, vốn có cảm tình với Đại Cathay - và có lẽ phần nào cũng muốn “chơi trội” - nhắn gặp Đại Cathay, thân mật khuyên:
- Để khỏi phải động viên, anh chịu phiền làm gạc-đờ-co (cận vệ) cho tôi là xong chuyện!
Đại Cathay cười cười đáp lại rất thiệt tình:
- Tôi đi đâu cũng có hàng chục “gạc-đờ-co” nay lại làm “gạc-đờ-co” cho ngài, không lẽ bỏ mấy thằng “gạc-đờ-co” của tôi thất nghiệp?
Nghe kể, có một lần giới “dân chơi” xôn xao vì tin Nguyễn Ngọc Loan thừa lệnh Nguyễn Cao Kỳ chính thức mời Đại Cathay “đàm phán” để giải quyết nhằm triệt tận gốc rễ nạn du đãng tại Sài Gòn - Gia Định.
Để gây ấn tượng cho buổi đàm phán này, Đại Cathay đến điểm họp với tiền hô hậu ủng chưa từng có trong lịch sử giang hồ miền Nam: Bữa ấy Đại Cathay chễm chệ trên chiếc Chevrolet gắn máy lạnh do Tư Gáo cầm lái - nên nhớ xe hơi có gắn máy lạnh khoảng giữa thập niên 1960 của cả Sài Gòn có thể đếm trên đầu ngón tay (xe này Đại Cathay mua lại của bà Bút Trà). Cặp theo Chevrolet là hơn chục chiếc Honda 67 đen bóng, xoáy nòng chở đôi theo bảo vệ cho “đại ca”.
Cuộc đàm phán diễn ra trong vòng bí mật, tuy nhiên sau đó nội dung vẫn bị rò rỉ, đồn đại ra giới giang hồ. Theo đó, Nguyễn Ngọc Loan, có Mã Sâm Nhơn phụ tá, yêu cầu Đại Cathay từ giã cuộc đời du đãng, tuyên bố giải tán các băng, đảng dưới trướng. Tất cả anh em hoàn lương bảo đảm không ai bị làm khó dễ, còn được tạo điều kiện làm ăn. Ngược lại, kẻ nào trái lệnh, tiếp tục gây ân oán, Đại Cathay có nhiệm vụ “triệt”. Bù lại, Đại Cathay được đặc cách làm thư ký cho Nguyễn Ngọc Loan, với cấp bậc tương đương thẩm sát viên.
Cũng theo tin đồn, Đại Cathay ra giá “mặc cả” chỉ đồng ý đề nghị trên với hai điều kiện: Một là, phải để lại Cảng Sài Gòn cho giới giang hồ có đất làm ăn, hai là anh em dân chơi được quyền “bảo kê” các sòng bài. Cuộc “đàm phán” giằng co mãi, nhiều tỉ lệ ăn chia được đặt ra, nhưng không đi đến thống nhất.
Lại có tin Đại Cathay được đề nghị giữ chức Trưởng ty Cảnh sát quận 9 (tức vùng Thủ Thiêm). Đổi lại, Đại Cathay phải lập công bằng cách bắt gọn bọn đàn em. Việc này Đại Cathay từ chối thẳng thừng: “Tôi vốn là thằng du đãng, không thể nào bán đứng bạn bè, cũng là du đãng như tôi!” Dù thế nào, rốt cuộc “đàm phán” cũng không thành. Trung tâm Bài trừ Du đãng được thành lập.
Đại Cathay, vốn đã nổi danh lại càng lừng lẫy sau vụ “đàm phán” được thổi phồng lên rằng anh ta đã cương quyết không bán đứng giới giang hồ để mua chiếc lon thiếu tá cảnh sát, còn dám công khai bảo vệ dân chơi trước mặt viên tướng chỉ huy trưởng Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. Nghĩa khí này quả là đáng nể phục, xứng đáng làm đại ca của những đại ca. Tham vọng của Đại Cathay bắt đầu nổi lên. Anh ta tuyên bố với bọn đàn em rằng muốn trở thành một nhân vật như Bảy Viễn thời thực dân Pháp còn tạm chiếm, thành một ông “vua” trong kinh doanh bất cứ thứ gì ngoài vòng pháp luật. Nhưng phàm ở đời, những kẻ không biết tự lượng sức mình, không biết đâu là điểm dừng rất dễ bị diệt vong - hoặc theo nghĩa bóng, hoặc theo nghĩa đen.
Đến đây, chúng tôi xin trở lại lý giải từng câu chuyện đồn thổi về đoạn kết của Đại Cathay.
Khá nhiều nhật báo xuất bản tại Sài Gòn vào thời điểm ấy đã loan tin “giật gân sốt dẻo” trên sau đợt tổng tấn công của Mặt trận Giải phóng miền Nam năm 1968. Tin cho rằng Đại Cathay đã “chỉ huy một cánh quân tấn công vào hướng tây bắc Sài Gòn và bị bắn hạ trước trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám, gần Ngã tư Bảy Hiền”. Có báo còn thêm tình tiết để bạn đọc có thể tin được như “người ta tìm thấy trong xác chết một hộp quẹt Zippo có khắc tên Trần Đại ở nắp, một cuốn nhật ký viết về tiểu sử đời một tay du đãng, tự nhận mình là nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết viết về xã hội đen của một tác giả nổi tiếng xuất bản ở Sài Gòn...”.
Nguyễn Thụy Long (tác giả tiểu thuyết Loan mắt nhung, được cho là viết về Đại Cathay) khi đó đang là phóng viên một tờ nhật báo ở Sài Gòn, vừa nghe tin trên vội xách máy ảnh chạy thẳng lên ngã tư Bảy Hiền hỏi thăm bà con tại chỗ, tìm khắp khu vực quanh trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám song chẳng tìm thấy bất cứ chi tiết nào xác nhận nguồn tin ban đầu trên. Xác Đại Cathay không có, hộp quẹt Zippo cũng không, quyển nhật ký cũng không nốt.
Thụy Long dò hỏi thêm nhiều nhà báo, phóng viên, nhiếp ảnh... ở Sài Gòn hồi đó, nhưng không một ai ghi nhận thêm tình tiết nào khác, cũng không ai chụp được một pô ảnh nào khả dĩ chứng thực nguồn tin trên.
Nhằm chứng minh cho việc Đại Cathay đi theo Mặt trận Giải phóng miền Nam, có thêm tin đồn một trung tướng trong chính quyền Thiệu, do rất có cảm tình với Đại Cathay, đã đứng ra tổ chức chuyện vượt ngục cho Đại Cathay. Đại Cathay đã trốn thoát khỏi đảo, trở về đất liền. Nhưng khi tàu chở Đại Cathay vừa tới Cà Mau thì gặp quân du kích. Rốt cuộc lính tráng trên tàu lớp tử thương, lớp đầu hàng tình nguyện đi theo quân giải phóng - trong số này có Đại Cathay.
Tin đồn trên là hoàn toàn vô căn cứ, vì như chúng tôi đã tường thuật rõ ở phần trước: Đại Cathay vượt ngục nhưng chưa hề trốn thoát khỏi đảo Phú Quốc.
Vì vậy, nguồn tin Đại Cathay chỉ huy một cánh quân Mặt trận Giải phóng miền Nam tấn công vào hướng Tây Sài Gòn và bị bắn hạ trước trại nhảy dù Hoàng Hoa Thám, chỉ là một tin vịt.
Vậy phải chăng một viên sĩ quan quân đội Sài Gòn tên là Trần Tử Thanh đã giết Đại Cathay?