Các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm bao gồm: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành. Khái niệm GĐPT trong luật hình sự Việt Nam chỉ đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp mà không đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý. Bởi vì, ở những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý, xét về mặt chủ quan (ý chí) chủ thể không mong muốn tội phạm xảy ra, cho nên không thể quy định các bước "chuẩn bị phạm tội" hay "phạm tội chưa đạt" để buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự về điều chưa xảy ra. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó kẻ phạm tội có những hành vi tự tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm. "Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm" (điều 17, khoản 1, Bộ luật hình sự). Chuẩn bị phạm tội là trường hợp mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp nhất so với phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành vì chưa trực tiếp xâm hại đến khách thể của loại tội định thực hiện. Do vậy, luật hình sự Việt Nam chỉ đặt vấn đề trách nhiệm hình sự cho những trường hợp chuẩn bị phạm tội khi tội định phạm là một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nguy hiểm (điều 15, khoản 2).
Ngoài ra, điều 18 Bộ luật hình sự còn giải thích rõ "Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội". Căn cứ vào thái độ, tâm lí người phạm tội có thể phân biệt phạm tội chưa đạt trong hai trường hợp là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Trường hợp thứ nhất: kẻ phạm tội vì những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện được hết các hành vi cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm. Trường hợp thứ hai: kẻ phạm tội đã thực hiện các hành vi thoả mãn về mặt khách quan của một tội phạm nhưng chưa đạt được mục đích của mình. Phạm tội hoàn thành là trường hợp kẻ phạm tội đã thực hiện những hành vi thoả mãn các dấu hiệu quy định đối với tội phạm đó, nghĩa là hành vi phạm tội đã có đủ các dấu hiệu nói lên được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Khái niệm phạm tội hoàn thành không dùng để chỉ thời điểm kẻ phạm tội đạt được mục đích của mình. Nói phạm tội hoàn thành là hoàn thành về mặt pháp lí, tức là phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu cấu thành về tội phạm.